Nhiệm kỳ thứ nhất, 1933-1937 Franklin_D._Roosevelt

Các nơi công du ngoại quốc của Franklin D. Roosevelt trong thời gian làm tổng thống (được tô màu tím đậm).Roosevelt và Hoover trong ngày nhậm chức, 1933.

Khi Roosevelt tuyên thệ nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm 1933 (32 ngày sau khi Hitler được bổ nhiệm làm Thủ tướng Đức), nước Mỹ đang ở thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử. Một phần tư lực lượng lao động mất việc làm. Nông dân đang khốn đốn vì nông phẩm hạ giá 60%. Sản xuất công nghiệp chỉ còn hơn một nửa so với cùng kỳ năm 1929. Hai triệu người trở thành vô gia cư. Vì thiếu việc làm nên các tổ chức tội phạm và giới sống ngoài pháp luật ngày càng gia tăng. Chiều ngày 4 tháng 3, tất cả ngân hàng tại 32 trên 48 tiểu bang cũng như Đặc khu Columbia đều đóng cửa.[28] Ngày 5 tháng 3, Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại New York không thể mở cửa, do khách hàng hốt hoảng rút một khối lượng lớn tiền mặt trong những ngày trước đó.[29]

Khởi đầu bài diễn văn nhậm chức, Roosevelt quy kết trách nhiệm cuộc khủng hoảng kinh tế lên giới ngân hàng và doanh nhân tài chính, lòng hám lợi, và nền tảng vị kỷ của chủ nghĩa tư bản:

Chính yếu là vì những ông vua nắm giữ giao dịch tài chính của nhân loại đã thất bại vì quá ngoan cố và bất tài, đã thừa nhận thất bại và đã từ ngôi. Cung cách làm ăn của những kẻ đổi bạc vô lương tâm này vẫn còn bị cáo buộc trước tòa án công luận, bị lương tri và trí tuệ của con người bác bỏ. Sự thật thì họ đã cố gắng nhưng những nỗ lực của họ lại rơi vào phương thức của một thói quen lỗi thời. Khi đối mặt với khủng hoảng tín dụng họ chỉ biết đề nghị cho mượn thêm nhiều tiền. Bị mất trắng vì cám dỗ của lợi nhuận mà theo đó họ cũng đã gây ra thiệt hại cho nhân dân ta theo con đường sai lạc của họ, lúc đó họ lại tìm đủ mọi cách để che đậy bằng cách kêu gọi thiết tha xây dựng lại lòng tin.... Những kẻ đổi bạc đã bỏ trốn khỏi ngôi cao của mình trong ngôi đền văn minh của chúng ta. Chúng ta bây giờ có thể trùng tu lại ngôi đền này trở về trạng thái chân lý xưa. Biện pháp trùng tu ngôi đền mà chúng ta nên áp dụng là nằm trong phạm vi giá trị xã hội hơn là chỉ từ lợi nhuận của tiền bạc.
— Franklin D. Roosevelt[30]

Các sử gia xếp loại chương trình của Roosevelt là "cứu nguy, hồi phục và cải cách". Cứu nguy là vấn đề cấp bách vì có đến hàng chục triệu người thất nghiệp. Hồi phục có nghĩa là thúc đẩy nền kinh tế quay trở về trạng thái bình thường. Cải cách có nghĩa là sửa chữa dài hạn những gì sai trái, đặc biệt là với hệ thống ngân hàng và tài chính. Trong 30 lần nói chuyện buổi tối trên sóng phát thanh, được biết đến là "fireside chats", Roosevelt đã giới thiệu những đề nghị của ông trực tiếp đến công chúng Mỹ.[31]

New Deal lần thứ nhất, 1933-1934

"Một trăm ngày đầu tiên" của Roosevelt tập trung vào phần đầu của chiến lược: cứu trợ khẩn cấp. Từ ngày 9 tháng 3 đến 16 tháng 6 năm 1933, ông đệ trình Quốc hội con số kỷ lục các dự luật, và tất cả đều được thông qua. Tổng thống phải dựa vào những thượng nghị sĩ như George Norris, Robert F. WagnerHugo Black cũng như nhóm cố vấn chuyên môn được tuyển chọn từ giới trí thức khoa bảng để thiết kế các chương trình hành động. Giống Hoover, Roosevelt xem cuộc Đại Suy thoái một phần là do khủng hoảng niềm tin vì người dân cảm thấy e ngại khi quyết định chi tiêu hoặc đầu tư.

Lễ nhậm chức của Roosevelt vào ngày 4 tháng 3 năm 1933 diễn ra khi nước Mỹ đang trong tình trạng hốt hoảng vì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Tình huống này cho ra đời câu nói nổi tiếng của ông: "Điều duy nhất mà chúng ta nên sợ hãi là nỗi sợ của chính mình".[32] Ngay hôm sau, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp (Emergency Banking Act) tuyên bố một "ngày lễ ngân hàng" và thông báo một chương trình cho phép các ngân hàng mở cửa lại. Tuy nhiên, con số các ngân hàng mở cửa sau "ngày lễ" ít hơn con số ngân hàng từng mở cửa trước đây.[33] Đây là bước đề nghị đầu tiên của ông về phục hồi kinh tế. Để tạo lòng tin của dân chúng Mỹ đối với hệ thống ngân hàng, Roosevelt ký Đạo luật Glass-Steagall để lập ra Federal Deposit Insurance Corporation gọi tắt là FDIC (tạm dịch là Công ty Bảo hiểm Tiền gửi ngân hàng Liên bang).

Hình chụp "Bà mẹ di cư" của Dorothea Lange miêu tả số phận hẩm hiu của những lao công thu hoạch đậu trong thời kỳ suy thoái. Tâm điểm là Florence Owens Thompson, 32 tuổi, có bảy con, được chụp vào tháng 3 năm 1936
  • Kế hoạch cứu trợ của Roosevelt gồm có việc tiếp tục chương trình cứu trợ của Hoover nhưng mang một tên mới, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang. Cơ quan nổi bật nhất trong số các cơ quan thuộc kế hoạch New Deal và cũng là cơ quan tâm đắc của Roosevelt là Đoàn Bảo trì Dân sự (Civilian Conservation Corps – CCC). Cơ quan này tuyển dụng 250.000 thanh niên thất nghiệp để làm việc cho các đề án địa phương tại vùng nông thôn. Quốc hội cũng dành cho Ủy ban Thương mại Liên bang quyền lực nới rộng nhằm lập ra các quy định kiểm soát và cung cấp cứu nguy tài chính cho hàng triệu nông gia và chủ sở hữu nhà. Roosevelt cho mở rộng Tập đoàn Tài chính Tái thiết do Hoover thành lập để biến nó thành nguồn cung cấp vốn chính cho ngành đường sắt và công nghiệp. Roosevelt xem việc cứu trợ nông nghiệp là ưu tiên cao, ông cho thiết lập Cơ quan Điều chỉnh Nông nghiệp với nhiệm vụ nâng cao giá nông sản bằng cách trả tiền cho nông gia ngưng canh tác và cắt giảm số thú nuôi.
  • Cải cách nền kinh tế là mục tiêu của Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia (National Industrial Recovery Act – NIRA) năm 1933 nhằm chấm dứt tình trạng cạnh tranh khốc liệt bằng cách buộc các ngành công nghiệp phải tuân thủ bộ quy tắc ấn định cơ chế vận hành cho mọi công ty trong ngành như giá sàn, thỏa hiệp tránh cạnh tranh và định mức sản xuất. Các lãnh đạo công nghiệp thương thảo bộ quy tắc mà sau đó được các giới chức NIRA chấp thuận. Theo điều kiện để được NIRA chấp thuận, ngành công nghiệp phải tăng tiền lương. Những điều khoản này đã làm phấn chấn các công đoàn và đình chỉ các luật lệ chống cạnh tranh. Ngày 27 tháng 5 năm 1935, một phán quyết với sự đồng thuận của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ tuyên bố NIRA là vi hiến. Phản ứng chống lại phán quyết này, Roosevelt nói, "Mục tiêu và nguyên lý căn bản của NIRA là đúng đắn. Hủy bỏ đạo luật là điều không thể tưởng tượng được. Nó có nghĩa là quay trở lại tình trạng hỗn loạn trong công nghiệp và lao động."[34] Năm 1933, những quy định mới về ngân hàng được thông qua. Năm 1934, Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán Hoa Kỳ được thành lập để kiểm soát Phố Wall với sự lãnh đạo của người vận động gây quỹ tranh cử năm 1932 là Joseph P. Kennedy.
  • Chính sách phục hồi kinh tế được theo đuổi bằng phương sách "bơm vào tiền mồi" (chính là chi tiêu của liên bang). NIRA chi tiêu 3,3 tỷ USD cho Cơ quan Công chính do Bộ trưởng Nội vụ Hoa Kỳ Harold Ickes đảm trách nhằm kích thích nền kinh tế. Roosevelt cộng tác với Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa George Norris để thành lập doanh nghiệp quốc doanh lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ là Cơ quan Thung lũng Tennessee (gọi tắt tiếng Anh là TVA) nhằm quản lý các đề án xây dựng đập nước, nhà máy điện, kiểm soát lũ, hiện đại hóa nông nghiệp và gia cư ở Thung lũng Tennessee nghèo khó. Việc bãi bỏ luật cấm rượu cồn cũng mang đến một nguồn thu nhập mới từ thuế và giúp ông giữ lời hứa trong lúc vận động tranh cử.
  • Sắc lệnh Hành chính số 6102 đặt toàn bộ vàng cá nhân của công dân Hoa Kỳ thành tài sản ngân khố Hoa Kỳ. Mục đích là để đối phó tình trạng lạm phát đang hoành hành nền kinh tế.[35]

Roosevelt cố gắng thực thi những điều ông đã hứa lúc tranh cử bằng cách cắt giảm ngân sách liên bang, bao gồm việc cắt giảm 40% phúc lợi dành cho cựu chiến binh và cắt giảm tổng thể chi tiêu quân sự. Ông cắt khỏi danh sách hưu bổng khoảng 500.000 cựu chiến binh và quả phụ cũng như cắt giảm phúc lợi đối với những người còn lại. Các cuộc biểu tình phản đối của các cựu chiến binh bùng phát. Roosevelt vẫn giữ vững lập trường của mình nhưng vào năm 1936 vì sức ép của các cựu chiến binh, đạo luật tiền thưởng khồng lồ được thông qua mặc dù bị ông phủ quyết. Ông thành công trong nỗ lực cắt giảm tiền lương chính phủ và ngân sách dành cho lục quân và hải quân. Ông giảm chi tiêu về nghiên cứu và giáo dục.[36][37]

Roosevelt cũng giữ lời hứa xúc tiến việc bãi bỏ luật cấm rượu cồn. Tháng 4 năm 1933, ông ra chỉ thị hành chính định nghĩa nồng độ cồn 3,2% được phép tiêu dùng. Sắc lệnh này theo sau hành động của Quốc hội nhằm thảo ra và thông qua tu chính án hiến pháp số 21 mà sau đó được thông qua vào cùng năm đó.

New Deal lần thứ hai, 1935 – 1936

Bão cát xảy ra thường xuyên trong thập niên 1930; đây là cơn bão xảy ra tại tiểu bang Texas năm 1935.

Cuộc bầu cử quốc hội năm 1934 đã mang lại thuận lợi cho Roosevelt khi Đảng Dân chủ nắm đa số ghế áp đảo tại cả hai viện lập pháp. Đó cũng là lúc hình thành một cao trào mới cho New Deal trong quy trình lập pháp. Các quy trình lập pháp này gồm có việc thành lập ra Cơ quan Quản trị Tiến trình Xây dựng Công chánh (Works Progress Administration), viết tắt là WPA. Cơ quan quản lý này thiết lập ban cứu nguy quốc gia để thuê mướn 2 triệu gia trưởng trên toàn quốc. Tuy nhiên vào lúc đỉnh điểm thuê mướn của WPA năm 1938, tỉ lệ thất nghiệp vẫn cao khoảng 12,5% theo con số thống kê của Michael Darby.[38] Đạo luật An sinh Xã hội thiết lập nên hệ thống an sinh xã hội và hứa hẹn nền an ninh kinh tế cho người già, người nghèo và người bệnh. Thượng nghị sĩ Robert Wagner thảo ra Đạo luật Wagner mà sau đó chính thức trở thành Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia. Đạo luật này thiết lập quyền liên bang của công nhân được quyền thành lập công đoàn, quyền thương thuyết tập thể và quyền tham gia đình công.

Trong khi New Deal lần thứ nhất năm 1933 được đa số thành phần xã hội rộng rãi ủng hộ, New Deal lần thứ hai phải đối mặt với cộng đồng thương mại. Các đảng viên Dân chủ bảo thủ, do Al Smith lãnh đạo, đánh trả bằng cách thành lập Liên đoàn Tự do Mỹ (American Liberty League). Họ tấn công Roosevelt một cách điên cuồng và so sánh ông với MarxLênin.[39] Ngược lại, các công đoàn, được thêm năng lực nhờ vào Đạo luật Wagner, đã ký tên hàng triệu thành viên mới và trở thành lực lượng hậu thuẫn lớn cho các cuộc tái tranh cử của Roosevelt vào năm 1936, 1940 và 1944.[40]

Môi trường Kinh tế

Chi tiêu của chính phủ tăng từ 8,0% tổng sản lượng quốc gia dưới thời Tổng thống Hoover năm 1932 lên 10,2% tổng sản lượng quốc gia năm 1936. Vì khủng hoảng, nợ quốc gia tính theo phần trăm tổng sản lượng quốc gia tăng gấp đôi dưới thời Hoover từ 16% lên đến 33,6% tổng sản lượng quốc gia năm 1932. Mặc dù Roosevelt đã quân bình ngân sách "thường lệ" nhưng ngân sách khẩn cấp được tài trợ bằng tiền nợ đang tăng lên đến 40,9% năm 1936, và sau đó vẫn nằm ở mức đó cho đếnChiến tranh thế giới thứ hai thì tăng vọt nhanh chóng. Nợ quốc gia tăng dưới thời Hoover, duy trì ở mức đều đặn dưới thời FDR cho đến khi chiến tranh bắt đầu như được trình bày trong biểu đồ số 1.[41]

Nợ quốc gia tính từ 4 năm trước khi Roosevelt nhậm chức tổng thống cho đến 5 năm sau khi ông mất khi đang tại chức

Chi tiêu thâm thủng được một số nhà kinh tế học đề nghị, nổi bật là đề nghị của John Maynard Keynes từ Vương quốc Anh. Tổng sản lượng quốc gia năm 1936 là 34% cao hơn so với năm 1932 và 58% cao hơn trong năm 1940, trong đêm trước chiến tranh. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế phát triển 58% từ năm 1932 đến năm 1940 trong khoảng thời gian 8 năm hòa bình, và rồi phát triển 56% từ 1940 đến 1945 trong khoảng thời gian 5 năm chiến tranh. Tuy nhiên, sự phục hồi kinh tế đã không làm nạn thất nghiệp mà Roosevelt thừa hưởng biến mất hoàn toàn. Thất nghiệp giảm đáng kể trong nhiệm kỳ đầu của Roosevelt từ 25% khi ông nhậm chức xuống còn 14,3% năm 1937. Tuy nhiên sau đó, nó lại gia tăng lên đến 19,0% năm 1938 ('khủng hoảng trong khủng hoảng') và 17,2% năm 1939, và vẫn giữ tỉ lệ cao này cho đến khi nó hoàn toàn biến mất trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai khi những người thất nghiệp trước đây được tuyển mộ quân dịch.[42]

Suốt thời gian chiến tranh, nền kinh tế hoạt động dưới những điều kiện khác biệt nên việc so sánh với thời bình là không phù hợp. Tuy nhiên, Roosevelt coi các chính sách New Deal là tâm điểm di sản của ông. Trong bài Diễn văn về Tình trạng Liên bang năm 1944, ông chủ trương rằng người Mỹ nên coi quyền lợi kinh tế cơ bản như là một đạo luật nhân quyền thứ hai.

Nền kinh tế phát triển nhanh trong nhiệm kỳ của Roosevelt.[43] Tuy nhiên, sự phát triển này được theo sau là tình trạng thất nghiệp liên tục ở mức độ cao; tỉ lệ thất nghiệp trung bình trong thời New Deal là 17,2%. Suốt cả các nhiệm kỳ của ông, bao gồm những năm chiến tranh, tỉ lệ thất nghiệp trung bình là 13%.[44][45] Tổng số thất nghiệp trong suốt nhiệm kỳ của ông nới rộng khoảng 18,31 triệu việc làm bị mất trong khi tỉ lệ gia tăng việc làm trung bình hàng năm dưới thời chính phủ của ông là 5,3%.[46]

Roosevelt không tăng thuế thu nhập trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu; tuy nhiên thuế sổ lương (payroll tax) cũng bắt đầu được đưa ra nhằm gây quỹ cho chương trình mới là An sinh Xã hội năm 1937. Ông cũng được Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chi tiêu thêm cho nhiều chương trình và kế hoạch khác nhau mà chưa từng có trước đây trong lịch sử Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dưới sức ép tài chính do Đại suy thoái gây ra, đa số các tiểu bang đều đưa ra thêm nhiều loại thuế hay tăng thuế trong đó có thuế thu nhập cũng như thuế gián thu. Việc Roosevelt đề nghị thu các loại thuế mới đối với tiền tiết kiệm của các công ty đã gây ra tranh cãi lớn trong 1936–37 nhưng cuối cùng chúng bị Quốc hội bác bỏ. Trong thời gian chiến tranh, ông thúc ép tăng tỉ lệ thuế thu nhập thậm chí cao hơn đối với cá nhân (lên đến một tỉ lệ thuế cận biên là 91%) và đại công ty, giới hạn mức lương cao đối với các viên chức lãnh đạo các công ty. Ông cũng phát Lệnh Hành pháp số 9250 vào tháng 10 năm 1942 nhằm tăng tỉ lệ thuế cận biên lên đến 100% đối với những ai có tiền lương vượt trên 25.000 đô la (sau thuế). Điều đó có nghĩa là giới hạn mức lương cao nhất là lên đến 25.000 đô la (khoảng chừng 334.000 đô la năm 2008).[47][48][49] Tuy nhiên lệnh hành pháp này bị Quốc hội hủy bỏ sau đó. Để tài trợ chiến tranh, Quốc hội mở rộng thu thuế đối với hầu hết những ai đi làm đều phải trả thuế thu nhập liên bang. Thuế trả trước (thuế được trừ ra trước khi tiền lương được phát) được giới thiệu vào năm 1943.

Tổng sản phẩm nội địa của Hoa Kỳ từ tháng 1 năm 1929 đến tháng 1 năm 1941
Thất nghiệp (% lực lượng lao động)
Năm Lebergott Darby[50]
1933 24,9 20,6
1934 21,7 16,0
1935 20,1 14,2
1936 16,9 9,9
1937 14,3 9,1
1938 19,0 12,5
1939 17,2 11,3
1940 14,6 9,5
1941 9,9 8,0
1942 4,7 4,7
1943 1,9 1,9
1944 1,2 1,2
1945 1,9 1,9

Chính sách ngoại giao, 1933–37

Việc không ký vào hiệp ước tham gia Hội Quốc Liên năm 1919 đã đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa biệt lập trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, không tham gia vào các tổ chức thế giới. Mặc dù Roosevelt có nền tảng chủ nghĩa Wilson, ông và bộ trưởng ngoại giao của ông là Cordell Hull đã hành động rất cẩn thận, tránh kích động chủ nghĩa biệt lập. Thông điệp gây xôn xao của Roosevelt gởi đến hội nghị tiền tệ thế giới năm 1933 thực sự kết thúc tất cả những nỗ lực lớn của các cường quốc nhằm hợp tác trong công cuộc kết thúc cuộc khủng hoảng thế giới, tạo cơ hội cho Roosevelt rảnh tay thực hiện chính sách kinh tế riêng của Hoa Kỳ.[51]

Sáng kiến chính về chính sách ngoại giao trong nhiệm kỳ đầu tiên của Roosevelt là "Chính sách lân bang tốt". Đây là một sự tái định lượng chính sách của Hoa Kỳ đối với châu Mỹ La Tinh. Kể từ khi Học thuyết Monroe ra đời vào năm 1823, khu vực này đã từng được xem như là một vùng ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Các lực lượng Mỹ rút khỏi Haiti. Các hiệp ước mới được ký kết với CubaPanama đã kết thúc tình trạng của họ là quốc gia được Hoa Kỳ bảo hộ. Tháng 12 năm 1933, Roosevelt ký văn kiện Hội nghị Montevideo về quyền lợi và nghĩa vụ của các quốc gia, từ bỏ quyền can thiệp đơn phương vào công việc nội bộ của các quốc gia châu Mỹ La Tinh.[52]

Tái thắng cử lớn, 1936

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1936, Roosevelt vận động tranh cử dựa vào các chương trình New Deal của ông chống lại đối thủ Alf Landon, Thống đốc tiểu bang Kansas, là người chấp nhận phần lớn chương trình New Deal nhưng phản bác rằng nó không có lợi cho doanh nghiệp và quá nhiều lãng phí. Roosevelt và Garner chiến thắng với tỉ lệ 60,8% phiếu bầu phổ thông và chiến thắng gần như ở tất cả các tiểu bang, trừ MaineVermont. Các đảng viên Dân chủ cũng thắng lớn, thậm chí trở thành khối đa số lớn hơn tại cả hai viện lập pháp của Quốc hội. Roosevelt được hậu thuẫn bởi một liên minh cử tri gồm các đảng viên Dân chủ truyền thống trên toàn quốc, các nông gia nhỏ, cư dân miền Nam Hoa Kỳ, người công giáo La Mã, các cỗ máy thành phố lớn, các liên đoàn lao động, người Mỹ gốc châu Phi ở miền bắc, người Do Thái, giới trí thức và người theo chủ nghĩa tự do chính trị. Liên minh này thường được gọi là Liên minh New Deal, phần lớn không thay đổi sự hậu thuẫn cho đảng Dân chủ cho đến thập niên 1960.[53]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Franklin_D._Roosevelt //nla.gov.au/anbd.aut-an35461123 http://encyclopedia.kids.net.au/page/fr/Franklin_D... http://genealogy.about.com/library/surnames/r/bl_n... http://www.amazon.com/Documentary-History-Franklin... http://www.amazon.com/FDRs-Folly-Roosevelt-Prolong... http://www.americanheritage.com/articles/magazine/... http://www.americanheritage.com/people/presidents/... http://www.bartleby.com/124/pres49.html http://www.classbrain.com/artteenst/publish/articl... http://www.davidpietrusza.com/FDR-links.html